Forum trường THPT Thái Phiên
Bạn hãy đăng nhập hoặc đăng kí làm thành viên của diễn đàn trường THPT Thái Phiên để góp vui với mọi người nhé !!
Forum trường THPT Thái Phiên
Bạn hãy đăng nhập hoặc đăng kí làm thành viên của diễn đàn trường THPT Thái Phiên để góp vui với mọi người nhé !!
Forum trường THPT Thái Phiên
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

Forum trường THPT Thái Phiên

SMod thông báo: diễn đàn đóng cửa - Admin đi nghỉ mát rầu, Mem thích làm gì thì làm, chém thỏa mái
 
Trang ChínhTrang Chính  Latest imagesLatest images  Tìm kiếmTìm kiếm  Đăng kýĐăng ký  Đăng NhậpĐăng Nhập  
Top posters
ngocsohn
Phân tích Độc Tiểu Thanh Ký của Nguyễn Du Vote_lcapPhân tích Độc Tiểu Thanh Ký của Nguyễn Du I_voting_barPhân tích Độc Tiểu Thanh Ký của Nguyễn Du Vote_rcap 
admin
Phân tích Độc Tiểu Thanh Ký của Nguyễn Du Vote_lcapPhân tích Độc Tiểu Thanh Ký của Nguyễn Du I_voting_barPhân tích Độc Tiểu Thanh Ký của Nguyễn Du Vote_rcap 
<rémyphú>
Phân tích Độc Tiểu Thanh Ký của Nguyễn Du Vote_lcapPhân tích Độc Tiểu Thanh Ký của Nguyễn Du I_voting_barPhân tích Độc Tiểu Thanh Ký của Nguyễn Du Vote_rcap 
haihandsome94
Phân tích Độc Tiểu Thanh Ký của Nguyễn Du Vote_lcapPhân tích Độc Tiểu Thanh Ký của Nguyễn Du I_voting_barPhân tích Độc Tiểu Thanh Ký của Nguyễn Du Vote_rcap 
muapro94
Phân tích Độc Tiểu Thanh Ký của Nguyễn Du Vote_lcapPhân tích Độc Tiểu Thanh Ký của Nguyễn Du I_voting_barPhân tích Độc Tiểu Thanh Ký của Nguyễn Du Vote_rcap 
phucbyna8
Phân tích Độc Tiểu Thanh Ký của Nguyễn Du Vote_lcapPhân tích Độc Tiểu Thanh Ký của Nguyễn Du I_voting_barPhân tích Độc Tiểu Thanh Ký của Nguyễn Du Vote_rcap 
badboy10a8
Phân tích Độc Tiểu Thanh Ký của Nguyễn Du Vote_lcapPhân tích Độc Tiểu Thanh Ký của Nguyễn Du I_voting_barPhân tích Độc Tiểu Thanh Ký của Nguyễn Du Vote_rcap 
ngoc.huong182
Phân tích Độc Tiểu Thanh Ký của Nguyễn Du Vote_lcapPhân tích Độc Tiểu Thanh Ký của Nguyễn Du I_voting_barPhân tích Độc Tiểu Thanh Ký của Nguyễn Du Vote_rcap 
nguyenlinh92
Phân tích Độc Tiểu Thanh Ký của Nguyễn Du Vote_lcapPhân tích Độc Tiểu Thanh Ký của Nguyễn Du I_voting_barPhân tích Độc Tiểu Thanh Ký của Nguyễn Du Vote_rcap 
¶Ken
Phân tích Độc Tiểu Thanh Ký của Nguyễn Du Vote_lcapPhân tích Độc Tiểu Thanh Ký của Nguyễn Du I_voting_barPhân tích Độc Tiểu Thanh Ký của Nguyễn Du Vote_rcap 
Latest topics
» Đón Giáng Sinh cùng StudyLink - Tháng 12/2015
Phân tích Độc Tiểu Thanh Ký của Nguyễn Du Emptyby studylink219 22/12/15, 09:48 am

» Học tiếng Anh với chương trình "Đôi bạn cùng tiến" tại StudyLink - Thá
Phân tích Độc Tiểu Thanh Ký của Nguyễn Du Emptyby studylink219 11/11/15, 02:37 pm

» Chương trình ưu đãi tháng 10/2015 - Trung tâm Anh ngữ StudyLink
Phân tích Độc Tiểu Thanh Ký của Nguyễn Du Emptyby studylink219 22/10/15, 03:46 pm

» Vui học tiếng Anh cùng Trung tâm Anh ngữ StudyLink - Tháng 9/2015
Phân tích Độc Tiểu Thanh Ký của Nguyễn Du Emptyby studylink219 25/09/15, 09:38 am

» Chương trình ưu đãi tháng 8/2015 - Trung tâm Anh ngữ StudyLink
Phân tích Độc Tiểu Thanh Ký của Nguyễn Du Emptyby studylink219 31/07/15, 03:47 pm

» Chương trình ưu đãi tháng 7/2015 tại Trung tâm Anh ngữ StudyLink
Phân tích Độc Tiểu Thanh Ký của Nguyễn Du Emptyby studylink219 15/07/15, 03:46 pm

» Chương trình ưu đãi tháng 6/2015 – Vui hè cùng StudyLink
Phân tích Độc Tiểu Thanh Ký của Nguyễn Du Emptyby studylink219 23/06/15, 02:29 pm

» Vui hè cùng StudyLink với chương trình Endless Summer tháng 5/2015
Phân tích Độc Tiểu Thanh Ký của Nguyễn Du Emptyby studylink219 07/05/15, 09:19 am

» Chương trình ưu đãi tháng 4/2015 tại Trung tâm Anh ngữ StudyLink
Phân tích Độc Tiểu Thanh Ký của Nguyễn Du Emptyby studylink219 13/04/15, 02:57 pm

» [Chia sẻ] Game casual "Bắn trứng khủng long" HOT 2014
Phân tích Độc Tiểu Thanh Ký của Nguyễn Du Emptyby dark_sky 13/11/14, 11:27 am

» [Chia sẻ] Game casual "Bắn trứng khủng long" HOT 2014
Phân tích Độc Tiểu Thanh Ký của Nguyễn Du Emptyby dark_sky 13/11/14, 11:27 am

» Khuyến mãi từ Trung tâm Anh ngữ StudyLink
Phân tích Độc Tiểu Thanh Ký của Nguyễn Du Emptyby studylink219 06/10/14, 04:40 pm

» Học cao đẳng có thể phải lấy bằng trung cấp?
Phân tích Độc Tiểu Thanh Ký của Nguyễn Du Emptyby miss123 05/01/14, 08:16 am

» Tuyển lập lờ, sinh viên chịu thiệt
Phân tích Độc Tiểu Thanh Ký của Nguyễn Du Emptyby miss123 05/01/14, 08:16 am

» Học cao đẳng có thể phải lấy bằng trung cấp?
Phân tích Độc Tiểu Thanh Ký của Nguyễn Du Emptyby motminh123 04/01/14, 09:03 pm

» Tuyển lập lờ, sinh viên chịu thiệt
Phân tích Độc Tiểu Thanh Ký của Nguyễn Du Emptyby motminh123 04/01/14, 09:02 pm

» Học cao đẳng có thể phải lấy bằng trung cấp?
Phân tích Độc Tiểu Thanh Ký của Nguyễn Du Emptyby ngocha123 04/01/14, 08:39 pm

» Tuyển lập lờ, sinh viên chịu thiệt
Phân tích Độc Tiểu Thanh Ký của Nguyễn Du Emptyby ngocha123 04/01/14, 08:39 pm

» Tặng 75% giá trị thẻ học tiếng anh, kỹ năng mềm, công nghệ thông tin
Phân tích Độc Tiểu Thanh Ký của Nguyễn Du Emptyby daihoctructuyen 23/07/13, 04:13 pm

» KiKi RPG – Phiêu lưu vào thế giới quỷ
Phân tích Độc Tiểu Thanh Ký của Nguyễn Du Emptyby phuongtep 08/06/13, 02:18 pm

» [UPDATE 2013] Topic tập hợp mỗi ngày 1 game chuẩn không cần chỉnh 100%
Phân tích Độc Tiểu Thanh Ký của Nguyễn Du Emptyby nguyenlinh92 06/06/13, 11:27 am

Most active topics
Những bài thơ tình hay nhất, ai yêu thơ thì xin mời
20-11 of 11A8
[Phần mềm cập nhật hằng ngày] Phần mềm hay
Cho em hỏi chút
Hot hot, chuyện lạ của lớp 11a8 nè
Tuyển dụng Moderator cho diễn đàn
Try Fu Production
Những câu chuyện tình yêu ý nghĩa
Vào chúc mừng sinh nhật của Vũ và Ngọc đi các bạn..........
[Tâm sự tình yêu] Ai là người bạn nghĩ đến đầu tiên...?

 

 Phân tích Độc Tiểu Thanh Ký của Nguyễn Du

Go down 
Tác giảThông điệp
muapro94
MOD
MOD
muapro94


Tổng số bài gửi Tổng số bài gửi : 139
Xu TP Xu TP : 51821
Cảm ơn !! Cảm ơn !! : 2
Ngày sinh Ngày sinh : 04/07/1994
Tham gia ngày: Tham gia ngày: : 30/10/2010
Tuổi Tuổi : 30
Đến từ Đến từ : thien duong tinh yeu
Châm ngôn sống : ☺☺☺™maj~ ¥€µ m0┬. ѧµ0j`™♥♥♥

Phân tích Độc Tiểu Thanh Ký của Nguyễn Du Empty
Bài gửiTiêu đề: Phân tích Độc Tiểu Thanh Ký của Nguyễn Du   Phân tích Độc Tiểu Thanh Ký của Nguyễn Du Empty08/08/11, 07:52 pm



I. Hành trình Độc tiểu thanh ký đi đến với công chúng

Không phải là chỉ từ năm 1993, khi có ý kiến phê bình việc dịch nghĩa, dịch thơ bài Độc Tiểu Thanh ký trong sách giáo khoa Văn 10(3), thì giới nghiên cứu mới thực sự chú ý đến bài thơ này và đã tạo ra một cuộc tranh luận khá sôi nổi như Nguyễn Đăng Na đã viết. Sự thực một sự việc tương tự đã xẩy ra từ hơn nửa thế kỷ trước.

Năm 1924 trong cuốn Truyện cụ Nguyễn Du, hai tác giả là Phó bảng Phan Sĩ Bàng và Giải nguyên Lê Thước, dựa theo ý kiến của ông Nghè Nguyễn Mai, thuộc thế hệ thứ mười của dòng họ Nguyễn Tiên Điền, lần đầu tiên công bố hai câu cuối của bài này và giới thiệu là lời khẩu chiếm của Nguyễn Du trước khi mất.

Bàn về tâm sự Nguyễn Du hai ông đã viết: "Ngài là một người vẫn có tính hay sầu mà lại sinh vào buổi loạn lạc, gặp nhiều những cảnh sầu, phải làm những điều bất đắc dĩ, cho nên cái tình sầu của ngài cứ đeo đẳng mãi với cái thân thế của ngài, cho đến lúc lâm chung cũng còn chưa hết, xem như lúc ngài mất có câu khẩu chiếm như thế này thời đủ biết:

Bất tri tam bách dư niên hậu,
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như.
(Ba trăm năm lẻ qua rồi.
Trên trần biết có còn ai khóc mình?"(4)).

Năm 1925 Phó bảng Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim "hiệu khảo" Truyện Kiều. Lời tựa do Trần Trọng Kim viết, cũng theo chiều hướng nhận định đó: "Vì thời thế bắt buộc, khiến tiên sinh không giữ được cái nghĩa trung thần bất sự nhị quân… Bởi thế nên khi tiên sinh sắp mất có khẩu chiếm hai câu rằng:

Bất tri tam bách dư niên hậu,
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?"(5).

Nhà học giả Phan Văn Hùm ở miền Nam cũng tán đồng ý kiến đó: "Tính ra từ năm Gia tĩnh triều Minh (1522) đến năm Canh thìn (1820) thì sẽ sít số 300 năm. Vậy đến ngày chết Nguyễn Du vẫn mang canh cánh bên lòng Truyện Thuý Kiều mà nhớ rằng, mình khéo dư nước mắt khóc người ở 300 năm trước mình, rồi nhân đó mà liên tưởng nghĩ đến sau mình 300 năm không biết có ai khóc giùm mình như mình đã khóc Thuý Kiều chăng"(6).

Như vậy là cho đến khoảng 1924-1925 người đọc vẫn chưa tiếp cận được với toàn bộ bài Độc Tiểu Thanh ký, gồm 8 câu, mà chỉ mới biết có hai câu cuối cùng, được xem là hai câu khẩu chiếm của nhà thơ trước lúc lâm chung. Tình tiết này có vẻ cũng phù hợp với những điều mà sử sách triều Nguyễn - Đại Nam chính biên liệt truyện - ghi chép về nhà thơ: "Nguyễn Du là người ngạo nghễ tự phụ, song bề ngoài tỏ vẻ giữ gìn cung kính, mỗi lần vào chầu vua thì ra dáng sợ sệt như không biết nói năng gì… Kịp khi mắc bệnh nặng, ông không chịu uống thuốc, bảo người nhà sờ tay chân, họ nói với ông là đã lạnh cả rồi, ông bảo "tốt", nói xong thì mất, không trối lại một lời"(7).

Mãi đến năm 1941, dưới một bài báo nghiên cứu về lai lịch Truyện Kiều đăng trên tạp chí Tri tân, Đào Duy Anh đã có lời ghi chú: "Tôi vừa được xem Thanh Hiên thi tập của Nguyễn Du thì mới biết rằng hai câu ấy không phải là khẩu chiếm mà là hai câu trong bài thơ làm sau khi đọc chuyện Tiểu Thanh là một người con gái cùng ở đời Minh như Thuý Kiều, giỏi thi từ, rành âm luật, nhưng phải lấy lẽ, vì vợ cả quá ghen mà phải ở riêng, người ta xui đi lấy chồng khác không chịu, buồn rầu oán hận sinh bệnh mà chết"(8).

Tuy vậy nhà nghiên cứu văn học Kiều Thanh Quế hình như vẫn còn tiếc rẻ cái huyền thoại đẹp về thi nhân mà mình tôn sùng, nên vẫn biện bác: "Đành rằng hai câu ấy có trong Thanh Hiên thi tập nhưng biết đâu trước giờ lâm chung, Tố Như chẳng ngâm lại để than thở nỗi lòng"(9).

Đào Duy Anh lại viết bài Tam bách dư niên hậu đăng tạp chí Thanh Nghị số 22, tháng 10-1942, giới thiệu toàn bộ bài Độc Tiếu Thanh ký và nêu vấn đề "vì sao đọc chuyện Tiểu Thanh Nguyễn Du lại cảm khái đến thân mình?" và ông đã biện giải như sau: "Ta thấy đầu sách Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm tài nhân, nói về những giai nhân bạc mệnh, sau khi kể Tây Thi, Điêu Thuyền, Dương Quý Phi, thì nói về số phận bi thảm của Tiểu Thanh rất nhiều… Nguyễn Du đọc truyện Tiểu Thanh mà thương xót cho người thiếu phụ tài hoa đã hy sinh đời mình để giữ trọn trinh tiết với chồng, chứ không chịu theo lời người ta xúi dục để đi lấy chồng khác… Con đường nàng đi là theo đạo kinh thường: liệt nữ không lấy hai chồng Nguyễn Du thương xót nàng mà lại đau đớn cho mình không làm được như nàng. Là trung thần của nhà Lê, thời thế bắt ông phải làm tôi triều đình mới, khiến ông không hy sinh được thân mình cho trọn tiết. Làm việc quyền biến, tâm sự ông có nhiều uỷ khúc không thể thổ lộ ra hết được. Bởi thế ông mới đem mình mà so với Tiểu Thanh, mình là người ở sau ba trăm năm mà hiểu được để khóc nàng, nhưng không biết tâm sự của mình ở ba trăm năm về sau có ai hiểu được mà khóc mình không?"(10).

Tóm lại, nếu như Truyện Kiều nhờ viết bằng tiếng Việt nên sớm được lưu truyền rộng rãi trong công chúng đông đảo thì trái lại thơ chữ Hán của Nguyễn Du nói chung, bài Độc Tiểu Thanh ký nói riêng, đã phải trải qua một chặng đường dài, có khi quanh co khúc khuỷu, để đến được với giới nghiên cứu và công chúng đông đảo. Trong hoàn cảnh như vậy sự cảm nhận của người đọc về bài thơ tất nhiên sẽ có nhiều ấn tượng khác nhau.
II. Truyện Tiểu Thanh
Trong các nhà nghiên cứu văn học Việt Nam thì có lẽ Liên Giang là người đầu tiên đã dịch và giới thiệu truyện Tiểu Thanh. Trong bài Vì sao Nguyễn Du lại cảm truyện Tiểu Thanh đăng trên tạp chí Tri Tân số 72 ngày 11- 1-1942, ông đã dịch toàn văn Tiểu Thanh truyện chép trong bộ Nữ Liêu Trai chí dị của Quảng ích thư cục và 12 bài thơ Phần dư (Số thơ còn lại).Cuối truyện có dẫn lời bàn của Trương Sơn Lai: "Truyện Tiểu Thanh có kẻ bảo là truyện không có vì ghép hai chữ tiểu và thanh lại làm một, thành ra chữ tình nhưng kịp khi đọc đến bài ca Tử Vân của Ngô Khẩu, thấy đoạn tiểu dẫn có câu rằng: Phùng Tử Vân là em gái Tiểu Thanh, gả về Mã Mao Bá ở Cối Kê. Như thế thì ra truyện tựa hồ như có thực".

Tháng 6 năm 1963, nhằm mục đích chuẩn bị việc kỷ niệm 200 năm sinh Nguyễn Du vào năm 1965, Viện Văn học đã cử một đoàn cán bộ sang Trung Quốc sưu tầm tư liệu. Tại Thư viện Quốc gia Bắc Kinh, ông Trương Tú Dân, chuyên viên thư tịch cổ của Thư viện, cho biết: Tài liệu về Tiểu Thanh gồm có ba loại:

1. Tiểu truyện Tiểu Thanh, chép theo lối truyện thực, hoặc có thêm thắt sáng tạo, do đó giữa các sách ít nhiều có "tiểu dị".

2. Phần dư: Số thơ từ của Tiểu Thanh còn lưu lại.

3. Các sáng tác về Tiểu Thanh sau khi nàng đã qua đời, gồm có thi, từ, hý khúc, truyện ký…

Đoàn Viện Văn học đã đề nghị được cung cấp một văn bản truyện Tiểu Thanh tương đối đáng lưu ý nhất và Thư viện Bắc Kinh đã chép cho Đoàn bản Phùng Tiểu Thanh sự tích trong Tây Hồ thập di, quyển thứ 19, do Tiền đường Mai Khê thị sưu tập.

Văn bản này chép truyện khá tỉ mỉ nhưng về đại thể cũng giống văn bản mà các nhà nghiên cứu ở ta đã công bố(11). Dưới đây chúng tôi sẽ lược thuật lại một số tình tiết chính được chép trong Phùng Tiểu Thanh sự tích, dựa vào lời dịch của Nguyễn Đức Vân, chuyên viên Hán học của Viện Văn học.

- Tiểu Thanh quê ở Quảng Lăng, tên là Nguyên Nguyên, họ Phùng. Mẹ là giáo viên trường nữ học, nên từ nhỏ Tiểu Thanh được học tập thơ văn, luyện tập văn nghệ và nổi tiếng thông tuệ khác thường.

16 tuổi lấy lẽ Phùng Tử Hư, con nhà hào phú ở vùng Tây hồ, vì trùng họ với chồng nên kiêng gọi họ mà chỉ gọi tên là Tiểu Thanh.

- Vợ Phùng sinh cực kỳ ghen tuông, giam giữ Tiểu Thanh ở phòng trong, cấm giao tiếp với mọi người, son phấn của Tiểu Thanh, mụ bắt vứt hết; sách vở của Tiểu Thanh, mụ bắt đốt sạch. Từng giờ từng phút, mụ bắt Tiểu Thanh đi theo sát bên mình, dù một nụ cười, một lời nói cũng không được trao đổi riêng tư với chồng. Thực như người xưa nói: Dù có muốn làm Ngưu lang, Chức nữ, mỗi năm gặp nhau một lần, cũng không được!

- Phùng sinh cầu cứu bà cô là Dương phu nhân. Bà này xin cho Tiểu Thanh được ra ở Gò Mai, Cô sơn. Mụ vợ Phùng sinh đồng ý nhưng đặt điều kiện: Không có lệnh ta mà chàng đến, không được tiếp; không có lệnh ta mà chàng gửi thư, không được mở xem; viết thư cho ai phải đưa ta xem trước. Nếu phạm một điều nào quyết không dung thứ.

Dương phu nhân lại tổ chức một cuộc chơi thuyền trên Tây hồ, dùng chén lớn phục cho vợ Phùng sinh say rượu rồi nói riêng với Tiểu Thanh: - "Xin cháu nghĩ cho kỹ, nếu không cho việc làm của Liễu Chương Đài là đa sự thì trên hồ này thiếu gì Hàn Quân Bình!". Nhưng Tiểu Thanh dứt khoát chối từ: "Số mệnh của cháu chỉ có thế thôi, nợ trước trả chưa xong, không dám có ý khác…".
Tiểu Thanh chỉ đến nhà Dương phu nhân mượn sách về đọc. Một đêm đọc vở kịch Mẫu đơn đình (Tức Tây sương ký) nàng làm một thiên tuyệt cú và từ đó mọi nỗi niềm buồn tủi đều gửi gắm vào thơ nhưng rồi người đồng điệu thưởng thức thơ nàng là Dương phu nhân phải theo chồng đi làm quan ở xa, Tiểu Thanh trở thành cô độc, rồi lâm bệnh nặng.

- Vợ Phùng sinh được tin, khôn xiết mừng rỡ, sai hầu gái đem thuốc đến. Tiểu Thanh cười nói: - "Ta vốn không thiết sống nữa, nhưng cần giữ cho thân thể thanh tịnh để về với Thần, Phật, đâu phải một gói thuốc của nhà ngươi mà có thể kết liễu được đời ta!". Rồi nàng cho mời một hoạ sĩ giỏi đến vẽ chân dung. Vẽ đến bức thứ ba thì nàng mới hài lòng vì cho là đã vẽ được thần sắc và phong thái của mình.

Nàng đem bức hoạ để ở đầu giường, thắp hương, rót rượu, tự khấn vái mình, rồi khóc đến lịm đi làm chết. Năm đó mới 18 tuổi.

- Phùng sinh tất tả chạy đến, thấy Tiểu Thanh phục trang vẫn chăm chút, dung nhan vẫn xinh đẹp như lúc còn sống thì khóc rống lên: "Ta phụ nàng rồi!".

Vợ Phùng sinh cũng chạy đến, tìm được một bức ảnh và một ít thơ văn, liền đem đốt ngay!
- Người chép truyện bình luận: "Giả sử Phùng sinh không sợ vợ, hoặc vợ hắn không ghen thì Tiểu Thanh cũng chỉ trộm nhờ ân ái trong phận lẽ mọn mà hưởng chút phúc lộc tầm thường!
Than ôi, điều mà Trời không thành tựu cho Tiểu Thanh trong nhất thời chính là để thành tựu cho Tiểu Thanh trong ngàn đời vậy!".

Từ bình luận này gợi lại đoạn nói về Tiểu Thanh trong chương mở đầu Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm tài nhân và giống hệt lời bình trong Tây hồ giai thoại của Cổ Ngô Mặc lãng tử mà Nguyễn Đăng Na đã dẫn. Điều này cho phép người đọc nghĩ rằng các nhà chép truyện Tiểu Thanh đều dựa vào một cốt truyện cổ nào đó rồi tự ý thêm thắt các chi tiết(12).

Tháng 7 năm 1964 trong chuyến đi sưu tầm bổ sung tư liệu về Nguyễn Du ở Trung Quốc nhà thơ Nam Trân và chúng tôi đã đến thăm và chụp ảnh kỷ niệm trước mộ Tiểu Thanh ở dưới chân Cô Sơn, Hàng Châu. Trước mộ có một cột bia đá ghi rõ "Phùng Tiểu Thanh chi mộ".

III. Nguyễn Du đã sáng tác Độc Tiểu Thanh ký trước hay sau khi đi sứ Trung Quốc?

Trong chuyến đi sưu tầm tài liệu về Nguyễn Du tháng 6 năm 1963 Đoàn cán bộ Viện Văn học đã đến tàng thư quán Hoàng sử thành, cạnh Cố cung, để tìm Hồ sơ về sứ trình của Nguyễn Du. Đây là kho lưu trữ văn thư bang giao của hai triều Minh, Thanh, được xây dựng từ năm 1534 đời Minh.
Ông quán trưởng cho biết: Quy chế văn thư của triều Thanh như sau: Khi có văn thư của các nước "phiên thuộc" gửi đến thì Nội vụ phủ giữ lại bản chính rồi sao một bản chân phương để dâng lên vua xem gọi là bản lụcphó. Bản nào vua có phê chữ son vào thì gọi là bản châu phê. Tất cả sẽ được lưu ở Quan cơ xứ tức phòng văn thư của nhà vua một thời gian, sau đó chuyển sang Hoàng sử thành để tàng trữ lâu dài.

Hồ sơ về chuyến đi sứ của Nguyễn Du được lưu giữ ở đây có cả bản lục phó lẫn châu phê. Loại châu phê nhiều hơn, thường chỉ có lời phê ngắn gọn: "Tri đạo liễu. Khâm thử", nhưng cá biệt cũng có vài bản có lời phê dài, chẳng hạn dưới tờ tâu ngày 18 tháng 11 năm Gia Khánh thứ 17 của Thành Lâm, Tuần phủ tỉnh Quảng Tây, thỉnh thị về ngày sứ thần Việt Nam được phép tới Kinh, để tiện quyết định ngày mở cửa Nam Quan, đã có lời châu phê như sau: "Khoảng ngày 25 hoặc 26 tháng 9 năm sau thì đến Kinh, bất tất phải sớm hơn! Khâm thử"(13).

Qua tập hồ sơ này có thể thấy việc tiếp đón, hộ tống, cung đốn… của triều Thanh đối với sứ đoàn Nguyễn Du vừa cẩn mật lại vừa chu đáo. Các tỉnh mà sứ đoàn đi qua đều có bản tấu gửi lên nhà vua, khải trình ngày vào và ngày ra khỏi địa giới tỉnh mình, tên tuổi các thuộc quan hộ tống và tình hình của sứ đoàn. Căn cứ vào bản tâu của các Tuần phủ, Tổng đốc Trung Quốc và hai "bẩm văn"(14) của Nguyễn Du gửi về cho vua nhà Nguyễn, chúng ta có thể biết lịch trình đi và về của sứ đoàn như sau:

6 - 4 Quý dậu : Vào cửa Nam Quan (tức ngày 6 - 5 - 1813)
5 - 6 : Đến Quế Lâm, tỉnh lỵ Quảng Tây.
Nghỉ lại chờ may quần áo rét, các loại mãng bào(15), quần bông, quần da do triều Thanh cấp tặng theo phẩm trật quan tước.
18 - 7 : Đến Trường Sa, tỉnh ly Hồ Nam.
30 - 7 : Đến Vũ Xương, tỉnh ly Hồ Bắc.
Nghỉ lại, ngày 9 - 8: đi tiếp từ Hán Khẩu.
21 - 9 : Đến Từ Châu, trạm đón tiếp đầu của tỉnh Trực Lệ, sau đó qua Bảo Định mà lên Bắc Kinh.
4 - 10 : Đến Bắc Kinh.
Đường về thì do có lụt nên phải đi vòng qua phía đông, theo một dãy các tỉnh Trực Lệ, Sơn Đông, An Huy, Hồ Bắc mà về Lưỡng Quảng.
24 - 10 Quý dậu : Rời Bắc Kinh, trở về nước.
2 - 11 : Về đến thành Cảnh Châu, thuộc tỉnh Trực Lệ, nghỉ đêm ở đấy, ngày 3 - 11 đến Đức Châu, tỉnh Sơn Đông, đi qua tỉnh An Huy, rồi theo đường bộ vào tỉnh Hồ Bắc ngày 5 - 12.
11 - 12 : Đến Vũ Xương, tỉnh Hồ Bắc, nghỉ lại ở công quán
16 - 12 xuống thuyền ra đi theo đường thuỷ.
25 - 12 : Từ huyện Gia Ngư, tỉnh Hồ Bắc, đi đến huyện Lâm Tương, tỉnh Hồ Nam.
31 - 1 Giáp tuất : Đến huyện Kỳ Dương, tỉnh Hồ Nam.
12 - 2 : Đến Toàn Châu, tỉnh Quảng Tây.
4 - 2 Nhuận : Đến Quế Lâm, tỉnh Quảng Tây.
29 - 3 Giáp tuất : Ra khỏi Nam Quan (tức ngày 18 - 5 - 1814).

Chúng tôi trình bày cụ thể sứ trình đi và về của Nguyễn Du nhằm đi đến hai kết luận sau đây.

1. Nguyễn Du không đến Hàng Châu

- Quan sát hướng đi về của sứ đoàn Nguyễn Du thì thấy đi chếch về phía Đông - Tây tức là hướng đến Vũ Xương chứ không phải Đông - Nam, nghĩa là hướng đến Hàng Châu.

- Từ Vũ Xương, tỉnh Hồ Bắc đến Quế Lâm, tỉnh Quảng Tây, sứ đoàn đi theo đường thuỷ (sông tự nhiên và kênh đào). Theo các bạn Trung Quốc cho biết thì đây là con đường ngắn nhất và tiện lợi nhất. Sĩ tử Giang Nam ngày xưa lên Bắc Kinh dự thi và về cũng đi theo đường này, nhưng sứ đoàn Nguyễn Du lại gặp lúc thời tiết không thuận "Nước sông khô khan, đường kênh cạn hẹp, đi rất chậm chạp" (theo “bẩm văn” thứ hai của Nguyễn Du). Đã thế đến huyện Kỳ Dương, tỉnh Hồ Nam lại gặp sự cố không may "một người tuỳ tòng là Phan Văn Đằng bị bệnh chết, bèn cho khâm liệm vào quan tài, chở riêng trong một chiếc thuyền, giao cho sứ thần nước ấy đưa về" (theo tờ tâu ngày 3 tháng 2 năm Gia Khánh thứ 19 của Thành Lâm, Tuần phủ Quảng Tây).

Trong hoàn cảnh cụ thể như trên, chúng tôi nghĩ rằng Nguyễn Du không có điều kiện đi đến Hàng Châu. Ở đây cũng còn một chi tiết cần chú ý là tờ tâu của tỉnh An Huy bị mất, nhưng An Huy thì lại càng cách xa Hàng Châu!

2. Bài Độc Tiểu Thanh ký được Nguyễn Du sáng tác trước khi đi sứ Trung Quốc.

Năm 1941, Đào Duy Anh được một người bạn ở Vinh cho mượn một bản Thanh Hiên thi tập, thì thấy bài Độc Tiểu Thanh ký được chép trong tập này.

Năm 1965 nhóm Lê Thước, Trương Chính lần đầu tiên sưu tập được một số lượng lớn thơ chữ Hán Nguyễn Du thuộc cả ba tập Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm, Bắc hành tạp lục thì bài Độc Tiểu Thanh ký cũng được chép trong Thanh Hiên thi tập. Kết hợp với tài liệu về sứ trình Nguyễn Du công bố trên Tạp chí Văn học số 4-1964 nhóm nghiên cứu này đã đi đến kết luận "Bài này không phải làm khi nhà thơ đi qua mộ Tiểu Thanh ở Tây Hồ mà làm khi còn ở nhà, nên không ở trong Bắc hành tạp lục"(16).

IV. Đề nghị một cách hiểu bài Độc tiểu thanh ký

Chúng tôi tán đồng ý kiến của Lê Thước, Trương Chính là Nguyễn Du đã sáng tác bài Độc Tiểu Thanh ký trước khi đi sứ Trung Quốc. Vậy thì nên hiểu hai câu đầu của bài thơ: Tây hồ mai uyển tẫn thành khư, Độc điếu song tiền nhất chỉ thư như thế nào?

Như trên đã nói trong chuyến đi sưu tầm bổ sung tư liệu về Nguyễn Du ở Trung Quốc tháng 6 năm 1964 nhà thơ Nam Trân và chúng tôi đã đến Thư viện Chiết giang ở trên Cô Sơn, Hàng Châu. Cùng đi với chúng tôi từ Bắc Kinh tới có Giáo sư Phạm Ninh và Phó giáo sư Lý Tu Chương, nghiên cứu viên của Viện nghiên cứu Văn học Trung Quốc. Đón tiếp và làm việc với chúng tôi ở Hàng Châu là Giáo sư Hạ Thừa Đảo, Chủ nhiệm Hệ Trung Văn trường Đại học Hàng Châu. Ở cuộc toạ đàm về Độc Tiểu Thanh ký tổ chức tại một "Nghinh phong đình" trên bờ Tây hồ, Giáo sư Hạ đã phát biểu: "Mấy năm trước Bùi Kỷ tiên sinh, quý Hội trưởng Hội Việt - Trung hữu nghị, sang thăm Trung Quốc, có đến Hàng Châu. Tiên sinh đã chép cho chúng tôi bài Độc Tiểu Thanh ký . Đến nay tôi lại được biết toàn bộ các tập thơ chữ Hán của Nguyễn Du. Theo tôi, một người sinh sống lâu năm ở Tây hồ, bài này không có chi tiết nào buộc chúng ta phải hiểu là tác giả đã đến Tây hồ, đối cảnh sinh tình mà làm ra. Đây chỉ là từ xa mà ngưỡng vọng Tây hồ. Các bài khác có nhan đề liên quan đến địa danh Hàng Châu cũng cần được khảo sát một cách thực sự cầu thị".

Việc hiểu hai cầu đầu bài Độc Tiểu Thanh ký thường khác nhau ở các từ khư và độc điếu. Đào Duy Anh, người đầu tiên công bố toàn bộ bài thơ này, đã dịch (1942):

Vườn mai Tây hồ đã thành cồn mả cả,
Nay trước cửa sổ chỉ viếng trên mảnh giấy thôi.

Nhóm Bùi Kỷ, Phan Võ, Nguyễn Khắc Hanh (1959) dịch:

Vườn hoa bên hồ Tây đã thành bãi hoang rồi,
Trước song một mình viếng một tập giấy.

Chú ý là nguyên bản chữ Hán ở sách này chép là Tây hồ hoa uyển, chứ không phải là mai uyển như bản Đào Duy Anh, nên đã được dịch là Vườn hoa bên hồ Tây.

Sách Hợp tuyển thơ văn Việt Nam thế kỷ X VIII - giữa thế kỷ XIX (1963) cũng dịch như trên. Thơ chữ Hán Nguyễn Du của Lê Thước, Trương Chính chủ biên (1965) dịch:

Vườn hoa bên Tây hồ đã thành bãi hoang rồi,
Chỉ viếng nàng qua một tập sách đọc trước cửa sổ.

Chúng tôi tán thành với cách hiểu thiên về phía cho hai câu thơ này chủ yếu không có ý nghĩa nặng về mô tả cảnh thực mà chỉ để diễn ý biến cải tang thương, tuy vậy hai câu cuối của bài lại gợi đến ý trường tồn, đến việc lưu danh thiên cổ, tất nhiên là chỉ gợi đến qua một câu nghi vấn và như một khả năng mà thôi!

Hai câu kết này nằm trong bài Độc Tiểu Thanh ký tất nhiên là trực tiếp nói về sự đồng cảm giữa nhà thơ Nguyễn Du và Tiểu Thanh, nhưng chúng ta cũng có thể đồng tình với soạn giả sách giáo khoa Văn 10: "Có thể nói Tiểu Thanh là hình tượng kết tinh cho "những người ca nữ đất La thành"(17) và từ đó người đọc có quyền nghĩ rằng khóc Tiểu Thanh nhà thơ Nguyễn Du đồng thời cũng đã liên tưởng đến Thuý Kiều, cùng Tiểu Thanh sống ở đời Minh, cùng số phận hồng nhan bạc mệnh, vì vậy từ trước đến nay các nhà nghiên cứu vẫn luôn liên hệ Độc Tiểu Thanh ký với Đoạn trường tân thanh và việc làm sáng tỏ ý nghĩa bài thơ nhỏ này cũng góp phần vào việc hiểu sâu thêm kiệt tác chính của Nguyễn Du”
st

tư liệu và hướng nghiên cứu

Bài Độc Tiểu Thanh kí được dịch và in bằng chữ quốc ngữ khá sớm(1), nhưng phải đợi đến khi soạn giả sách giáo khoa đưa vào Văn 10(2) thì giới nghiên cứu mới thực sự chú ý tới và tạo thành cuộc tranh luận khá sôi nổi, kéo dài ngót 5 năm, sau đấy tạm lắng xuống và cho tới nay vẫn còn nhiều điều cần bàn, nhất là những vấn đề về tư liệu và hướng nghiên cứu. Đấy cũng là mục đích của bài viết này.

Có lẽ người đầu tiên châm ngòi cho cuộc tranh luận bài Độc Tiểu Thanh kí là Ts. Nguyễn Danh Đạt. Ông cho rằng, bản dịch nghĩa và dịch thơ bài Độc Tiểu Thanh kí in trong Văn 10 “là chưa ổn”(3) và đưa ra cách dịch mới của mình. Chủ biên Văn 10 - GS. Nguyễn Đình Chú trả lời. Theo Giáo sư, muốn dịch một cách chính xác bài thơ, phải hiểu đúng hoàn cảnh ra đời của tác phẩm và nguyên nhân dẫn đến cách hiểu khác nhau “là do hiểu về hoàn cảnh sáng tác bài thơ khác nhau”(4). Trên cơ sở định hướng đó, Giáo sư khẳng định: Bài Độc Tiểu Thanh kí được viết khi Nguyễn Du còn ở nhà chưa đi sứ. Tiếp theo, các học giả Trần Đình Sử, Đào Thái Tôn, Nguyễn Quảng Tuân, Nguyễn Khắc Phi... lần lượt viết bài trao đổi. Để trình bày cách hiểu nội dung bài thơ, trong trao đổi, các vị đi theo hai hướng:

Một là, xác định thời điểm ra đời bài Độc Tiểu Thanh kí.

Hai là, truy tìm tư liệu liên quan tới Tiểu Thanh.

Về thời điểm bài thơ ra đời, các nhà nghiên cứu đã đưa ra kết luận ngược chiều nhau. Một số tán thành ý kiến của các cụ Bùi Kỉ, Đào Duy Anh... trước đây; cho rằng, Độc Tiểu Thanh kí được viết vào thời kì Nguyễn Du đi sứ Trung Hoa như Nguyễn Danh Đạt, Trần Đình Sử(5)… Số khác chẳng hạn Nguyễn Lộc, Nguyễn Đình Chú... thì đồng tình với Trương Chính: Độc Tiểu Thanh kí “không phải làm khi nhà thơ đi qua mộ Tiểu Thanh ở Hàng Châu, mà làm khi còn ở nhà”(6). Mỗi người đều đưa ra lí lẽ của mình và lí lẽ nào cũng có sức thuyết phục riêng. Tuy vậy, cũng có người muốn dung hòa rằng, “có thể Nguyễn Du đã viết bài thơ này trong thời kì đi sứ”(7).

Hướng truy tìm tư liệu về Tiểu Thanh, gồm Nguyễn Quảng Tuân, Trần Đình Sử, Nguyễn khắc Phi... Các ông đã lần lượt công bố Tiểu Thanh truyện trong thư tịch cổ Trung Hoa như Nữ Liêu trai chí dị(8), Ngu Sơ tân chí(9), Tình sử(10). Tuy nhiên, các ông mới tìm thấy Tiểu Thanh truyện. Thế thì, có cái gọi là Tiểu Thanh kí không? Hoặc giả, Tiểu Thanh kí là Tiểu Thanh truyện như có nhà nghiên cứu đã phỏng đoán?

Để giải quyết những vấn đề trên, chúng tôi nghĩ, trước hết cần biết Tiểu Thanh là ai; sau nữa phải truy tìm những tư liệu viết về Tiểu Thanh có liên quan đến các câu thơ Nguyễn Du. Những tư liệu tìm được sẽ cho ta lời giải đáp.

Bây giờ xin lần lượt trình bày từng vấn đề theo tư liệu chúng tôi đã có.

I/ Tam bách dư niên

1. Để tìm ẩn số 300 năm, vấn đề đầu tiên cần biết: Tiểu Thanh là ai?

Nói chung, trong các thư tịch của mình, người Trung Hoa viết về Tiểu Thanh khá thống nhất. Chỉ có điều, họ chưa thật nhất trí trong việc, nên xếp Tiểu Thanh theo họ hay theo tên trong từ điển. Chẳng hạn, cùng một bộ Từ Hải nhưng sách do Trung Hoa Thư cục xuất bản thì xếp Tiểu Thanh vào từ mục “Tiểu Thanh”, tra chữ tiểu [?] 3 nét; còn sách do Thượng Hải Từ thư xã xuất bản lại đặt vào từ mục “Phùng Tiểu Thanh”, tra chữ phùng [?] 12 nét. Lấy chữ “Phùng” hay chữ “Tiểu” làm đầu mục từ, đều thể hiện quan điểm về phụ nữ của các soạn giả. Khi tôn trọng ai đó, người Trung Hoa thường dùng họ để gọi, khi bình thường thì chỉ gọi tên là đủ. Vì lẽ đó, cuốn từ điển do Thượng Hải Từ thư xã in năm 1989, các soạn giả lấy chữ “Phùng” làm đầu mục từ để tra. Bởi không lưu ý tới đặc điểm này nên, khi tra “Tiểu” trong từ mục “Tiểu Thanh” ở Từ Hải của Thượng Hải Từ thư xã không thấy, có nhà nghiên cứu đã hốt hoảng thốt lên rằng khi tái bản, “cuốn Từ Hải mới (Thượng Hải Từ thư xuất bản xã, Thượng Hải, 1989) mục “Tiểu Thanh” đã bị lược bỏ”(11). Thực ra, họ đâu có “lược bỏ”! Chỉ tại, sách thì lấy tên, sách thì dùng họ làm đầu mục cho từ điển mà thôi.

Về cuộc đời Phùng Tiểu Thanh, thoạt đọc, ta cũng thấy hiện tượng dường như mâu thuẫn. Chẳng hạn, Trung Hoa Thư cục ghi, Tiểu Thanh là “tên người con gái ở Giang Đô, thời Minh... giỏi thơ từ, biết âm luật. Bởi vợ cả không dung, dời đến ở nhà riêng tại Cô Sơn; có người bà con là Dương phu nhân thương xót, nói bóng gió khuyên đi lấy chồng khác nhưng không nghe, buồn đau thành bệnh; sai họa sư vẽ ảnh mình, tự tế rồi chết, năm chỉ mới 18 tuổi; chôn ở Cô Sơn, Tây Hồ. Có người họ hàng thu thập thơ từ của nàng, khắc in thành Phần dư cảo. Vở tạp kịch Xuân ba ảnh của Từ Hối thời Minh là lấy từ câu chuyện về Tiểu Thanh mà phổ ra”(12). Thượng Hải Từ thư xã lại viết: Phùng Tiểu Thanh là “nhân vật trong truyện văn học. Tương truyền, nhà ở Dương Châu, giỏi thơ, tài họa. Năm 16 tuổi lấy con trai họ Phùng làm thiếp. Bị người vợ cả ghen tuông, đưa ra an trí tại Phật Xá, Cô Sơn do một ni cô cai quản, tinh thần đau khổ, uất ức mà chết. Vở kịch truyền kì Liệu đố canh của Ngô Bính thời Minh đã lấy sự kiện này làm đề tài”(13). Tuy viết có vẻ khác nhau như vậy, nhưng thực ra, họ đâu có mâu thuẫn. Chỉ vì, Trung Hoa Thư cục dựa vào cuộc đời thực của Tiểu Thanh để biên soạn, còn Thượng Hải Từ thư xã lại dựa vào tác phẩm văn học để viết về Tiểu Thanh. Ngay cả thời điểm Tiểu Thanh sống, họ viết cũng có vẻ khác nhau, song thực chất vẫn thống nhất. Chẳng hạn, Từ Hải nói, Tiểu Thanh người thời Minh; Từ Nguyên bản in năm 1988 bảo người thời Minh Mạt; còn Từ nguyên bản in năm 1938 và Trung Quốc nhân danh đại từ điển lại viết, nàng người thời Thanh Sơ... Bảo Tiểu Thanh người thời Minh, thời Minh Mạt hoặc Thanh Sơ đều đúng cả, vì mỗi sách lấy từ một nguồn khác nhau. Hơn nữa, trong văn chương, người viết thường dùng con số ước lượng.

2. Liên quan đến Tiểu Thanh là ai, có vấn đề mộ Tiểu Thanh.

Về mộ Tiểu Thanh thì, 3 trong 5 bộ từ điển là Từ nguyên (bản in năm 1938 và năm 1988) và Trung Quốc nhân danh đại từ điển đều khẳng định: Nay ở Cô Sơn, Tây Hồ có mộ Tiểu Thanh. Trong ba tư liệu trên, đáng chú ý nhất vẫn là Trung Quốc nhân danh đại từ điển, một loại sách công cụ chỉ dẫn tên người Trung Hoa có thật, đã thừa nhận: “nay ở Cô Sơn Tây Hồ Hàng Châu có mộ Tiểu Thanh”.

Vậy, hiện nay ở Cô Sơn, Tây Hồ có mộ Tiểu Thanh không? Rất may là, gần đây trên một trang Web của mạng Dương Châu (Trung Hoa), mục Dương Châu mĩ nữ (năm 2004) có đưa tin về Tiểu Thanh và hai bức ảnh: mộ Tiểu Thanh (ảnh này cách đây hơn 70 năm, Phan Quang Đán cũng đã công bố(14)) và ảnh màu cảnh Cô Sơn bên hồ Tây Tử. Nhấn mạnh vấn đề này, chúng tôi không nhằm mục đích khẳng định hoặc phủ định Tiểu Thanh là người có thật hay không có thật. Chỉ biết, Nguyễn Du viết bài Độc Tiểu Thanh kí và người Trung Hoa có ảnh mộ Tiểu Thanh. Vấn đề chúng ta cần là thời điểm Tiểu Thanh hiện diện trên đời vì liên quan tới câu “tam bách dư niên” trong thơ của Nguyễn Du.

Thực ra, vấn đề Phùng Tiểu Thanh diễn ra tương tự hiện tượng Vương Thúy Kiều. Thoạt đầu, nàng là người có thật, sau đấy, các văn nhân tài sĩ đua nhau tiểu thuyết hóa để thành các câu chuyện khác nhau.

3. Thời điểm Tiểu Thanh hiện diện trên thế gian này.

Có lẽ do mới tìm thấy Tiểu Thanh truyện, nên chúng ta lúng túng khi lí giải thời gian hơn 300 năm. Tính từ bao giờ để đến Nguyễn Du (1765-1820) được 300 năm? Ngu Sơ tân chí thì nói, Tiểu Thanh mất năm Nhâm Tí niên hiệu Vạn Lịch 1612. Xin lưu ý, chỉ có sách Ngu Sơ tân chí nói thời điểm Tiểu Thanh qua đời, các tài liệu khác như Tình sử, Nữ Liêu trai chí dị và một số tài liệu chúng tôi mới sưu tầm không đề cập tới vấn đề này. Dù tính toán bằng cách nào thì, từ năm Tiểu Thanh mất (theo Ngu Sơ tân chí) 1612, hoặc năm Tiểu Thanh sinh 1595 đến thời điểm Nguyễn Du ra đời 1765, hoặc Nguyễn Du đi sứ 1813, thậm chí tới lúc Nguyễn Du mất 1820 cũng chỉ được 225 năm (1820 – 1595 = 225) huống chi lại “hơn 300 năm”! Song, tài liệu Dương Châu mĩ nữ sẽ giúp ta giải đáp phần nào nghi vấn này.

Để giới thiệu các mĩ nữ nổi tiếng thời Minh của Trung Hoa, trong mục “Bi kịch thảm thương của Phùng Tiểu Thanh - đại diện cho các cô gái đẹp ở Dương Châu” địa chỉ www.yzmn.cn, tác giả viết: “Bên Tây Hồ ở Hàng Châu có hai ngôi mộ mĩ nhân thường khiến du khách phải buồn đau than thở. Thứ nhất là ngôi mộ cô đơn của Tô Tiểu Tiểu, một thi sĩ - danh kĩ nổi tiếng thời Nam Tề(15), nằm tại bờ tây Lãnh Kiều; ngôi thứ hai là mộ Phùng Tiểu Thanh, một oán nữ thời Minh Sơ, nằm yên tĩnh đã lâu trong khu rừng mai dưới chân núi Cô Sơn. Hai ngôi mộ cô quạnh cỏ xanh phủ kín khiến cho bờ hồ Tây Tử tăng thêm vẻ đẹp đượm buồn. Người tới đây tưởng niệm, không khỏi hồi tưởng đến câu chuyện thê lương của hai giai nhân bạc mệnh”.

Đoạn văn trên nói rõ, Tiểu Thanh sống thời Minh Sơ, mộ hiện ở Tây Hồ. Chẳng những thế, tác giả còn kể tỉ mỉ thân phận nàng:

“Phùng Tiểu Thanh vốn là con gái nhà thế gia ở Quảng Lăng. Trước đây, vị tổ của nàng từng theo Chu Nguyên Chương nam chinh bắc phạt, có công trong việc dựng nên giang sơn nhà Đại Minh. Sau khi nhà Minh định đô ở Nam Kinh, gia tộc họ Phùng được hưởng quan cao, lộc hậu. Đến đời phụ thân Phùng Tiểu Thanh, ông được thụ phong làm Thái thú Quảng Lăng.

Thuở ấu thơ, Phùng Tiểu Thanh sống trong phủ Thái thú ở Quảng Lăng. Đó là những ngày có thể nói rằng, vàng son chói lọi, áo gấm xênh xang, kẻ hầu người hạ tấp nập. Từ nhỏ, Phùng Tiểu Thanh đã xinh đẹp đoan trang, thông minh linh lợi, rất được yêu chiều”.

Về gia thế thân mẫu Phùng Tiểu Thanh, tác giả kể: “Mẹ nàng cũng là một khuê tú, xuất thân từ gia đình đại gia, giỏi văn chương, thạo đàn phách và chỉ có một cô con gái cưng như báu vật là Phùng Tiểu Thanh. Từ nhỏ, Tiểu Thanh đã được gia đình quan tâm dậy dỗ, mong sau này trở thành tiểu thư tài mạo xuất chúng”.

Thời thơ ấu của Tiểu Thanh như vậy. Nhưng rồi, một biến cố trọng đại bất ngờ ập xuống gia đình nàng. Tác giả kể tiếp: “Nhưng ai hay, trời có gió mây bất trắc; người có phúc họa khôn lường. Năm Kiến Văn thứ tư, Yên vương Chu Đệ mượn danh nghĩa “dẹp nạn” đã đoạt lấy ngôi vua của Kiến Văn đế. Khi Chu Đệ tiến quân vào Nam Kinh, thân phụ Phùng Tiểu Thanh bấy giờ đang là bề tôi của Kiến Văn đế nên đem quân cương quyết chặn lại. Sau khi Chu Đệ lấy được thiên hạ, Phùng gia tự nhiên trở thành ma không đầu dưới lưỡi dao của vị vua mới này và bị giết cả nhà. Lúc đó Phùng Tiểu Thanh vừa tuổi cập kê, lại đúng dịp đang theo một người bà con là Dương phu nhân ở nơi xa, nên may mà thoát nạn. Trong cảnh hỗn loạn ấy, nàng theo Dương phu nhân chạy đến Hàng Châu”.

Kiến Văn là niên hiệu của Chu Huệ đế nhà Minh, lên ngôi năm Kỉ Mão 1399. Như vậy, năm thứ tư sẽ là năm Nhâm Ngọ 1402. Vào thời điểm ấy, Tiểu Thanh đang tuổi cập kê, nghĩa là 14 hoặc 15 tuổi. Nàng mất ở tuổi 18, nghĩa là ba bốn năm sau, khoảng 1405-1406. Nếu tính từ 1405-1406 đến năm Nguyễn Du ra đời 1765 thì sấp sỉ 360 niên, còn tính đến năm vua Gia Long lên ngôi 1802 thì phải hai 3 năm nữa mới đủ 400 năm và nếu tính đến năm Nguyễn Du đi sứ 1813 thì đã 407-408 năm. Điều này có lẽ cho thấy, Nguyễn Du viết Độc Tiểu Thanh kí trước khi vua Nguyễn Gia Long lên ngôi, thậm chí viết rất sớm, trước khi Nguyễn Huệ đem quân ra Bắc năm 1786. Có điều rất lạ là, khi biên soạn Thơ chữ Hán Nguyễn Du, chẳng hẹn mà nên, cả hai nhà khoa học, ông Trương Chính và Đào Duy Anh đều khẳng định, Tiểu Thanh “sống vào đầu đời Minh”(16), đúng với tài liệu Dương Châu mĩ nữ. Hoặc giả, hai ông Trương - Đào đã được đọc tài liệu mà sau này mạng Dương Châu công bố chăng? Tiếc rằng, hai ông và cả tác giả Dương Châu mĩ nữ không cho biết xuất xứ tư liệu các vị đã dùng. Dựa vào tài liệu mạng Dương Châu mới công bố gần đây và chú thích của hai ông Trương - Đào, ta có thể coi như bước đầu đã giải quyết xong câu “bất tri tam bách dư niên hậu” và cũng có thể coi như giải đáp một phần vấn đề thời điểm Nguyễn Du viết Độc Tiểu Thanh kí. Tuy nhiên, theo chúng tôi, cũng không nên chỉ hiểu “tam bách dư niên” là thời điểm tính từ Tiểu Thanh qua đời đến Nguyễn Du đọc Tiểu Thanh kí. Ngoài nghĩa chủ yếu ấy ra, có lẽ Nguyễn Du còn muốn đề cập tới nghĩa thứ hai: chu kì vòng đời của một con người. Xin đưa ra để tham khảo thêm.

Cổ nhân cho rằng, giới hạn đời người là trăm năm. Vì vậy, khái số “trăm năm” được dùng để tính một kiếp. Triết học phương Đông cổ đại lại quan niệm, vòng đời con người gồm 3 kiếp (cũng gọi là “tam sinh” hoặc “tam thế”). Bởi vậy, “tam bách niên” cũng đồng nghĩa với một vòng đời. Sau khi hết một vòng đời 300 năm của mình, biết hậu thế có ai khóc Tố Như? Đấy có thể là ý nghĩa thứ hai của câu thơ: Bất tri tam bách dư niên hậu… Vả chăng, trong văn học, người trung đại thường dùng con số theo kiểu ước lượng, chứ không làm phép tính cộng trừ chuẩn xác như chúng ta ngày nay.

4. Nguyễn Du viết Độc Tiểu Thanh kí ở Việt Nam hay trên đường đi sứ năm 1813?

GS. Trần Đình Sử có lí khi đặt câu hỏi: “Nếu bài thơ viết trước khi đi sứ, thì sao biết được Tây Hồ cảnh đẹp hóa gò hoang?”(17).

Để giải đáp câu hỏi của GS. Trần, xin cung cấp một tư liệu khác: Tây Hồ giai thoại cổ kim di tích (gọi tắt là Tây Hồ giai thoại) của Cổ Ngô Mặc lãng tử [?]; tác phẩm ra đời vào thời Thanh với lời tự đề Tựa cho bản in ghi năm Quý Sửu niên hiệu Khang Hi 1673 của chính tác giả. Chúng tôi xin chỉ đề cập ở đây những gì trong tác phẩm này liên quan tới Độc Tiểu Thanh kí.

Sách in, khổ 17,8 cm x 11,5 cm. Bìa gồm ba cột dọc, đọc từ trên xuống. Cột giữa in 4 chữ cỡ lớn: Tây Hồ giai thoại; cột bên phải, 6 chữ nhỏ: Tinh hội thiết sắc toàn đồ; cột bên trái, cũng 6 chữ cỡ nhỏ: Kim Lăng Vương nha tàng bản. Nội dung của sách gồm:

a - Bài Tựa do chính tác giả tự đề, lạc khoản ghi: “Khang Hi tuế tại Chiêu dương Xích phấn nhược, Mạnh xuân Trâu nguyệt, Vọng nhật, Cổ Ngô Mặc lãng tử đề”. Ngày rằm tháng Giêng năm Quý Sửu niên hiệu Khang Hi là năm 1673. Tại trang này có hai dấu triện vuông. Dấu trên khắc ba chữ: “Mặc lãng tử”; dấu dưới bốn chữ: “Tây Hồ đắc nhân”.

b - Cấu trúc của sách: Sách gồm 2 phần.

* Phần đầu : một quyển với tên gọi Quyển đầu, có:

+ Bài Tựa của Cổ Ngô Mặc lãng tử;
+ Mục lục về 10 cảnh đẹp Tây Hồ là:

Buổi sớm trên đê Tô Thức, Hương sen ở Khúc Viện, Nghe tiếng chim oanh hót ở Liễu Lãng, Xem đánh cá ở Hoa Cảng, Tiếng chuông buổi sáng ở Nam Bình, Sắc thu ở Bình Hồ, Lưỡng Phong cao chạm mây, Trăng in bóng ở Tam Đàm, Chiều tà chiếu tháp Lôi Phong, Tuyết cuối mùa ở Đoạn Kiều.

+ Tranh vẽ và thơ: 2 bức Tây Hồ toàn đồ và 10 bức tranh ứng với 10 mục kể trên.

Bên mỗi bức Tây Hồ giai cảnh đều có một bài thơ, soạn giả ghi rõ, ai vẽ, đề thơ của ai.

* Phần hai: 16 quyển viết về danh nhân Trung Hoa là: Cát Hồng, Bạch Lạc Thiên, Tô Thức, Lạc Tân Vương, Lâm Hòa Tĩnh, Tô Tiểu Tiểu, Nhạc Phi và Tần Cối, Vu Khiêm, Lâm Đạo Tế, Biện Tài, Văn Thế Cao, Tiền Lưu, Viên Trạch và Lí Nguyên, Phùng Tiểu Thanh, Bạch Xà nương và Hứa Xương, pháp sư Liên Trì.

Trong bài Tựa, chúng tôi đặc biệt chú ý tới đoạn kết. Cổ Ngô Mặc lãng tử khẳng định: “Ngày nay và mai sau, có ai hâm mộ hồ Tây Tử mà không được tận mắt nhìn, thì mở bức họa đồ này ra, xem qua một lượt là dường như có thể như đang ngoạ du trên hồ Tây Tử vậy”. Thế thì, nếu Nguyễn Du đã đọc Tây Hồ giai thoại, đã mở xem 12 bức vẽ về Tây Hồ trong sách, có lẽ ông chẳng cần đến tận Tây Tử mới biết “Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư”! Hơn nữa, đa phần các thiên trong Tây Hồ giai thoại thường được kết cấu theo kiểu: Mở đầu bằng cảnh Tây Hồ tươi đẹp tràn đầy sức sống và hấp dẫn con người, nhưng khép lại bằng cảnh nhân vật chết, hoặc chết bi phẫn như Nhạc Phi, hoặc chết uất hận như Tiểu Thanh, Tô Tiểu Tiểu…; hoặc sau khi nhân vật chết rồi, chỉ còn lại di tích một ngôi mộ hoang, một ngôi nhà quạnh vắng thê lương, một khu vườn trống… như các thiên Cát Lĩnh tiên tích, Bạch Đê chính tích, Linh ẩn thi tích, Tây Lãnh vận tích, Nhạc phần trung tích… Và, chữ khư [?] đâu chỉ có một nghĩa là “gò hoang”? Khư ít nhất 7 nghĩa, trong đó có nghĩa là “nền hoang”, “hoang phế”... Cho nên, ta có thể hiểu “Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư” như các dịch giả của cả ba công trình Thơ chữ Hán Nguyễn Du: “vườn hoa bên hồ Tây đã thành bãi hoang rồi” (trang 96 bản Bùi Kỉ…, năm 1959; trang 162 bản Lê Thước, năm 1965; trang 173 bản Đào Duy Anh năm 1978). Ngoài ra, thiên số 7 trong Tây Hồ giai thoại: Nhạc phần trung tích viết về Nhạc Phi và Tần Cối còn giúp thêm tư liệu khẳng định thời điểm ra đời bài Độc Tiểu Thanh kí. GS. Nguyễn Đình Chú rất tinh tế khi nhận xét: “Nhạc Vũ Mục mộ là viết về mộ của Nhạc Phi ở Hàng Châu (thuộc tỉnh Chiết Giang) thì xem ra lại không đến mà viết”(18). Đúng vậy! Tây Hồ giai thoại đã chứng thực điều đó.
Vậy là, về cơ bản, ta đã giải quyết xong câu đầu Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư và 2 câu kết Bất tri tam bách dư niên hậu - Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như.



II/ Cổ kim hận sự… Phong vận kì oan…

“Hận sự” ở đây là gì? Tiểu Thanh bị oan tới mức nào khiến Nguyễn Du gọi là “kì oan”? “Phong vận kì oan…” đi liền với “cổ kim hận sự…” thành một cặp, không thể tách rời. Tình sử, Ngu Sơ(19) tân chí và kể cả Nữ Liêu trai chí dị chưa phản ánh được cái gọi là “hận sự” và “kì oan” của Tiểu Thanh. Nhưng thiên 14 Di tích về nỗi hận ở gò mai trong Tây Hồ giai thoại đã chỉ rõ điều này.

Sau khi kể xong cuộc đời Phùng Tiểu Thanh, Cổ Ngô Mặc lãng tử kết luận: “Kẻ có lòng liên tài, phần lớn coi việc Tiểu Thanh buồn uất mà chết là nỗi hận. Ta thì không nghĩ vậy. Giá như Phùng sinh không sợ tên đố phụ kia và vợ Phùng sinh không đố kị Tiểu Thanh, thì chẳng qua Tiểu Thanh chỉ là kẻ thê thiếp tham ân trộm ái, nhận sự sủng phúc tầm thường, dù tên tuổi có mĩ miều thì trong khoảnh khắc cũng tan biến, sao có thể trăm năm sau vẫn khiến văn nhân tài sĩ, mỗi khi qua ngôi nhà riêng ở Cô Sơn, điếu tưởng ánh tịch dương rực rỡ nơi núi chiều, nhớ tới Tiểu Thanh phong lưu như đang còn?

Than ôi! Điều mà trời kia không nhất thời thành tựu cho Tiểu Thanh lại chính là để thành tựu cho nàng ngàn năm! Sao lại có hận?”.

Đấy là cách nói của Mặc lãng tử. Nếu không coi cuộc đời của Tiểu Thanh là một nỗi hận lớn, hà cớ tác giả lại đặt nhan đề Mai tự hận tích – (Di tích về nỗi hận ở gò mai) cho câu chuyện về Tiểu Thanh, mà không đặt Tiểu Thanh truyện như Trương Triều trong Ngu Sơ tân chí, như Phùng Mộng Long trong Tình sử ? Hơn nữa, mở đầu câu chuyện, Mặc lãng tử còn đặt câu hỏi: “Tây Hồ là đất ăn chơi. Hoa đua cười, chim tìm bạn. Xuân qua, thu lại, bốn mùa đều làm người ta vui vẻ. Vậy sao lại có nỗi hận?”. Từ nhan đề, đến phần mở đầu, phần kết thúc câu chuyện, Mặc lãng tử đều tập trung vào một chữ hận. Chữ hận được khắc sâu bởi một kì oan. Nỗi kì oan của Tiểu Thanh bắt đầu xẩy ra năm nàng 16 tuổi khi cùng Phùng sinh kết duyên. Phùng sinh là đầu mối mọi nỗi oan nghiệt của Tiểu Thanh và chính nàng cũng gọi chàng là “oan nghiệp phu”.

Mặc lãng tử kể: “Phùng sinh là một công tử giầu có ở Tây Hồ. Tính chàng hám sắc, nhưng bị người vợ hay ghen giàng giữ, nên chẳng thể ho he gì được. Về sau, nhờ nhiều lần khẩn cầu thống thiết, vợ chấp nhận cho cưới thiếp, nhưng không cho lấy người ở gần, vì sợ những kẻ đó có quan hệ bất chính với chàng từ trước; lệnh phải lấy ở nơi xa, tận Duy Dương và hẹn vừa đi vừa về chỉ trong vòng nửa tháng, nếu quá hạn sẽ không cho người thiếp kia bước chân vào cửa. ý của cô ta là, do thời hạn gấp gáp chắc gì chàng tìm được người; mà nếu tìm được chăng nữa, vị tất có người đẹp”. Hơn nữa, cô còn nghĩ: “con gái Duy Dương phần nhiều bị các trưởng quan lấy hết rồi; nếu còn, thì cũng chỉ là loại thê thiếp tầm thường”. Nhưng cô biết đâu, số trời đã định, chồng cô lại gặp mĩ nữ Phùng Tiểu Thanh sắc tài toàn vẹn. Khi Tiểu Thanh xuất hiện, dù nàng “đã phải cúi đầu hạ dọng cung kính không dám lộ một chút phong lưu, vậy mà phong thái kiều diễm tự nhiên của Tiểu Thanh càng giấu, lại càng rực rỡ” khiến lòng đố kị của vợ Phùng trở nên uất kết. Cô ta “thấy Tiểu Thanh hạ mình, càng ngờ rằng, nàng có thâm ý gì, nên luôn luôn theo sát, không để cho chồng có thể cười nói riêng với nàng một lời”. Để ra oai, trước tiên cô thu vứt hết son phấn do Tiểu Thanh mang về, rồi đốt sạch sách vở Tiểu Thanh đem theo, sau đó cấm cố nàng trong phòng, không cho giao thiệp với bất cứ một ai dù chỉ nửa lời. Kể tới đây, Mặc lãng tử đã mỉa mai: “Đúng là cái gọi, “yêu thương bánh vẽ, tình lang trong tranh”! Đến như muốn làm Ngưu Lang - Chức Nữ mỗi năm gặp nhau một lần cũng không thể”.

Đây mới là khúc dạo đầu cho bản trường hận ca Phùng Tiểu Thanh. Những chi tiết chúng tôi vừa nêu trên đều không có trong Tình sử và trong Ngu Sơ tân chí.

Một lần, vợ Phùng sinh đi dâng hương tại chùa Thiên Trúc, sợ Tiểu Thanh ở nhà sẽ lén lút gặp chồng nên bắt cô đi theo. Lúc về tới nhà, hai người gặp Phùng sinh đang đợi trong phòng. Trông thấy chồng, Tiểu Thanh e ngại tránh mặt. Ta hãy xem vợ Phùng sinh phản ứng ra sao? Cô lên dọng phán: “Đây là nhà của ta, không phải nơi để ngươi tránh mặt; đây là phòng ở của ta, lại cũng chẳng phải nơi để ngươi có mặt. Có mặt hay tránh mặt đều không thể”. Chi tiết này cũng không có trong Tình sử và trong Ngu Sơ tân chí. Sau đó, cô đưa Tiểu Thanh đến ngôi nhà riêng tại gò mai núi Cô Sơn cho ở một mình và lệnh: “Ta có ba điều pháp quy ngươi phải tuân thủ là: chưa có lệnh ta mà chàng đến, không được gặp mặt; chưa được lệnh ta mà có thư từ chàng gửi đến, không được mở xem; ngươi có viết thư từ, phải đưa ta đọc, không được tự ý thư từ với người khác. Nếu có chút gì sai phạm, quyết chẳng nương nhẹ!”.

Cứ như vậy, vợ Phùng sinh từng bước dồn Tiểu Thanh đến chỗ chết: ban đầu, vứt hết phấn son, đốt sạch sách vở, cấm cố không cho giao tiếp với bất cứ ai kể cả chồng. Tiểu Thanh muốn như vợ chồng Ngâu mỗi năm gặp nhau một lần cũng không xong. Tiếp theo, sự có mặt hay tránh mặt của Tiểu Thanh đều không nơi. Rồi, tống nàng ra ngôi nhà riêng dưới chân núi Cô Sơn bắt ở một mình với ba điều pháp quy cấm ngặt không cho giao thiệp với đời. Như vậy khác nào chặt hết đường sống của nàng? Đến đỗi, nơi Cô Sơn “tuy cảnh núi sông tươi đẹp, (Tiểu Thanh) cũng không dám hé cửa sổ ngắm nhìn”. Nỗi cô đơn uất hận khiến Tiểu Thanh thành bệnh mà qua đời. Một chi tiết trong Tiểu Thanh truyện cũng như trong Mai tự hận tích đều có nhưng dường như ít được chú ý là, khi Phùng sinh mở màn nhìn Tiểu Thanh lúc biết tin nàng đã qua đời. Mặc lãng tử viết: “Chiều xuống, Phùng sinh lật đật chạy tới, mở màn ra nhìn, thấy Tiểu Thanh dung quang tươi đẹp, áo quần sạch tươm như thuở sinh thời chưa bị ốm, nhưng chẳng còn nói cười nữa, không nén nổi tiếng kêu bi ai, giẫy chân, hộc máu ra đến hơn một đấu”. Khi bị chết oan, gặp thân nhân như chồng con, bố mẹ…, người chết thường nấc lên rên, hộc máu ra rồi mới chết hẳn. Đáng tiếc rằng, các dịch giả Tiểu Thanh truyện lại cho đấy là hành vi của Phùng sinh, nên dịch: “người chồng bỗng dẫm chân gào lên một tiếng dài rồi thổ ra hơn một thăng huyết”(20), hoặc “Chập tối chồng hay tin chạy lại, vén màn thấy dung nhan như sống, xiêm áo tinh tươm, đau đớn khóc to, thổ huyết một thăng. Sau đó lục lọi tìm được…”(21). Nếu anh chồng đã “thổ ra đến hơn một thăng huyết” sao còn sức để “lục tìm hồi lâu, thấy được một quyển thơ…”, rồi lại “đau đớn gào lên: Ta phụ nàng! Ta phụ nàng!”? Đấy chính là cách biểu hiện cái “kì oan”, cái “hận sự” của Phùng Tiểu Thanh.

Ở đây nên hiểu “phong vận kì oan” như thế nào cho thỏa đáng? “Phong vận” có hai nghĩa. Thứ nhất: người con gái có tư thái tốt đẹp; thứ hai: “chỉ phong cách tình thú của thơ văn, thư, họa”(22). Vậy là, không chỉ Tiểu Thanh, mà cả thơ văn, thậm chí cả bức vẽ Tiểu Thanh cũng mắc “kì oan”. Số phận Tiểu Thanh diễn ra đúng như vậy: chết trong uất hận, thơ từ và bức vẽ đều bị đốt…

Vì kì oan nên hận mà chết. Nỗi hận kia đâu chỉ xẩy ra với riêng Tiểu Thanh, mà xẩy ra đối với mọi kiếp người trên thế gian này và đi suốt thời gian kim cổ. Đấy là quy luật cuộc đời mà Nguyễn Du rút ra. Sau này, khi đã nhiều tuổi hơn, ông khái quát xã hội mình đang tồn tại bằng những câu thơ chua xót:

Hậu thế nhân nhân giai Thượng quan,
Đại địa xứ xứ giai Mịch La,
Ngư long bất thực sài hổ thực...
(Đời sau ai ai (tính cách) cũng đều như Thượng quan,
Mặt đất đâu đâu cũng chỉ là sông Mịch La,
Không bị ngư long ăn thịt, thì bị hùm sói ăn thịt...)

Thượng quan là Ngận Thượng, một tên quan luôn đố kị hiền tài, đã gièm pha Sở Hoài vương ruồng bỏ Khuất Nguyên, khiến Khuất Nguyên phải đâm đầu xuống sông Mịch La tự tử. Sông Mịch La nơi Khuất Nguyên tự tử, tượng trưng cho cõi chết. Con người toàn là kẻ nham hiểm đẩy hiền tài đến cái chết, mặt đất đều là nơi tử địa.

“Cư” trong cụm từ “ngã tự cư”, nên hiểu là “xử” như các cụ Bùi Kỉ, Trương Chính... đã dịch. Ta tự coi nỗi kì oan của nàng, của thơ văn do nàng viết, của bức chân dung nàng do họa sư vẽ… là chính nỗi kì oan của ta, như chính ta đang mắc nỗi kì oan đó; cũng có nghĩa là, ta hiểu thấu nỗi kì oan của nàng.

III/ Độc điếu song tiền nhất chỉ thư

1. “Nhất chỉ thư” là gì ?

Câu Độc điếu song tiền nhất chỉ thư được dịch như sau:

- Trước song một mình viếng một tập giấy (bản Bùi kỉ 1959, tr.69).
- Chỉ viếng nàng qua một tập sách đọc trước cửa sổ (bản Lê Thước 1965, tr.162, Đào Duy Anh 1988, tr.173).
- Riêng ta viếng khóc tập sách trước cửa sổ (Trần Danh Đạt, Sđd, tr.43).
- Một mình nhớ tới nàng qua một tờ giấy chép truyện (Trần Đình Sử, tr.222).
- Trước song cửa sổ ta một mình ngồi viết bài thơ này để điếu nàng trên một tờ giấy (Nguyễn Quảng Tuân, Sđd, tr.45).

Ở đây có ba cách hiểu: Một là viếng tập giấy, viếng khóc tập sách, nghĩa là viếng tác phẩm viết về Tiểu Thanh; hai là viếng qua một tập sách, một tờ giấy chép truyện, nghĩa là viếng qua tác phẩm viết về Tiểu Thanh; ba là viết bài thơ này để điếu nàng, nghĩa là, điếu bằng bài Độc Tiểu Thanh kí. Và như vậy, “nhất chỉ thư” được hiểu theo hai nghĩa: truyện về Tiểu Thanh và bài Độc Tiểu Thanh kí.

Chúng tôi nghiêng về cách hiểu của ông Nguyễn Quảng Tuân.

“Điếu” là động từ giữ chức năng vị ngữ trong câu. Là động từ, “điếu” vừa có bổ ngữ trực tiếp (điếu ai), vừa có bổ ngữ gián tiếp (điếu bằng cái gì). Rõ ràng, không thể điếu tập truyện như ông Trần Danh Đạt đã dịch. Do đó, chỉ còn điếu qua tập truyện Tiểu Thanh và điếu qua bài thơ khóc Tiểu Thanh. Muốn chọn phương án nào trong hai cách hiểu trên, theo chúng tôi, cần hiểu “nhất chỉ thư” là gì.

Thực ra, “nhất chỉ thư” không chỉ là một tờ giấy có chữ viết, mà là, tờ giấy có chữ do chính tay mình viết. Nếu vậy, không thể hiểu đấy là tác phẩm về Tiểu Thanh. Một điều nữa chúng tôi hết sức băn khoăn rằng, chẳng biết Nguyễn Du có dùng điển tích “nhất chỉ thư” hay ngẫu nhiên trùng với điển tích đó. Xin nêu ra để bạn đọc tham khảo. “Nhất chỉ thư” là một điển về Lưu Hoằng (236-306), rút từ Tấn thư, dùng để chỉ sự tâm huyết, công minh của người tự tay viết “nhất chỉ thư” dâng lên bề trên. Người dân bấy giờ có câu: “được “nhất chỉ thư” của Lưu công, hơn được tiến cử làm quan trong thập bộ”. Nguyễn Du đã ví bài Độc Tiểu Thanh kí của mình như biểu dâng lên Tấn Huệ đế của Lưu Hoằng(23)? Nếu đúng như vậy, qua điển “nhất chỉ thư”, Nguyễn Du muốn bày tỏ rằng, ông thấu hiểu nỗi lòng Tiểu Thanh và ông cũng chẳng giấu điều đó: “ngã tự cư”!

2. “Song tiền”.

Về chữ, “song tiền” là trước cửa sổ. Nhưng, cửa sổ nào? Cửa sổ nhà Tiểu Thanh ở Cô Sơn Hàng Châu hay cửa sổ nhà Nguyễn Du tại Việt Nam?

Như trên kia đã trình bày, Nguyễn Du viết Độc Tiểu Thanh kí khi chưa đi sứ, do đó ông không thể đến trước cửa sổ nhà Tiểu Thanh đọc bài thơ của mình được. Song, nếu Nguyễn Du điếu Tiểu Thanh ở trước cửa sổ nhà mình thì nghe ra lại khiên cưỡng.

Xin hãy trở lại Di tích về nỗi hận ở gò mai. Trong văn bản có hai chi tiết đáng chú ý: Một là, khi Tiểu Thanh còn sống, tác giả kể: “tuy cảnh núi sông (ở Cô Sơn) tươi đẹp, (Tiểu Thanh) cũng không dám hé cửa sổ ngắm nhìn”; hai là, sau khi Tiểu Thanh qua đời, Lưu Vô Mộng – bạn của Phùng sinh “qua gò mai, trong cửa sổ thêu, nơi Tiểu Thanh nằm, tìm thấy một mảnh giấy tàn có ba câu của bài từ, điệu Nam hương tử…”. Như vậy, trong cửa sổ là thế giới của Tiểu Thanh – nơi nàng ở và qua đời, còn ngoài cửa sổ - song tiền thế giới của nhân gian, của Lưu Vô Mộng, của Nguyễn Du, của chúng ta… Nguyễn Du điếu nàng bằng “nhất chỉ thư” tại song tiền – thế giới những người đang sống. Đấy là nghĩa thứ nhất. Thứ hai, chẳng rõ có phải ngẫu nhiên không, nhưng về Tiểu Thanh có truyện của Tiên Tiên cư sĩ trong Lục song nữ sử, tác phẩm ra đời vào thời Minh. “Lục song” là cửa sổ xanh, nơi ở của con gái, sau dùng để chỉ chỗ đàn bà sinh sống. Vả chăng, thơ ca luôn mang tính ước lệ.

IV/ Chi phấn hữu thần…, Văn chương vô mệnh…

Hai câu này không phức tạp lắm.

1. “Chi phấn” - đồ trang sức của phụ nữ, sau dùng để chỉ giới nữ lưu nói chung. “Thần” là thần thái, thần sắc, ở đây chỉ nhan sắc, tài hoa và trí tuệ của Tiểu Thanh. Trong tác phẩm của mình, Mặc lãng tử luôn nhấn mạnh đến thần thái Tiểu Thanh tươi đẹp. Khi mới 10 tuổi, nàng đã mục tú mi thanh, thông tuệ khác thường. Năm nàng 16 tuổi, Phùng sinh mới gặp đã siêu lòng. Về tới nhà chồng, mặc dù nàng đã “cúi đầu hạ dọng cung kính không dám lộ vẻ phong lưu, vậy mà, phong thái kiều diễm của Tiểu Thanh càng giấu lại càng rực rỡ”. Trước mặt vợ Phùng sinh, Dương phu nhân vẫn thẳng thắn nhận xét Tiểu Thanh là “một cô gái tốt! Mi thanh mục tú, ôn hòa nhã nhặn khác thường, chẳng sánh bậc tao nhân mặc khách, thì cũng là người ở chốn kim mã ngọc đường”. Lúc Tiểu Thanh qua đời, Mặc lãng tử từng thốt lên: “Người đẹp như ngọc mà mệnh mỏng như mây; nhị quỳnh, ưu đàm nhân gian có một”. Đặc biệt, bức vẽ thứ ba, Mặc lãng tử nhận xét: “cực kì phong nhã”. Tác giả Dương Châu mĩ nữ còn miêu tả bức vẽ thứ ba hấp dẫn hơn nhiều: “hoạ s¬ư đề nghị Phùng Tiểu Thanh không cần ngồi nghiêm nghị mà cứ nói cư¬ời, đi lại, nằm ngồi bình thư¬ờng, còn tình cảm buồn vui oán giận thì cứ để chúng tùy theo cảm hứng tự nhiên, hà tất phải cố ý tạo dựng. Tiểu Thanh lĩnh hội ý của hoạ sư¬, bèn không ngồi cứng nhắc như¬ tr¬ước mà cứ hoạt động bình thường. Lúc thì nàng cùng bà hầu chuyện trò cư¬ời nói, lúc lại quạt lò pha trà, lúc đùa chơi với chim anh vũ, hoặc quay sang đọc thơ xem sách, hoặc đi lại dư¬ới gốc mai... Qua từng cử chỉ, từng cái nhăn mày đến điệu cư¬ời tiếng nói của Tiểu Thanh… họa sư¬ đã nắm bắt đư¬ợc thần thái, cốt cách của nàng. Quan sát như¬ vậy mất ba ngày, sau đó lại mất một ngày pha mầu rồi mới vẽ. Trong bức vẽ này, Tiểu Thanh dựa cây mai một cách tự nhiên, sống động như¬ thật, dư¬ờng như¬ có thể gọi nàng bư¬ớc ra khỏi tranh”. Cái sắc thái sinh động có thần của Tiểu Thanh đã đi vào bức họa, biến bức họa vốn vô tri vô giác thành con người sống thực làm liên can đến việc sau khi nàng qua đời: bức họa bị đốt! Nếu Tiểu Thanh không có cốt cách, không có tâm hồn, không có thần thì sau khi nàng đã qua đời, không thể khiến cho bức vẽ về nàng bị đốt. Văn chương nào phải đâu là sinh mệnh sống, mà bị lụy khiến chúng thành tro?

2. Phần dư

“Phần dư” là phần (thơ, từ) còn lại không bị đốt, chứ không phải “tập thơ bị đốt còn sót lại” hoặc “đốt dở,… phần đốt còn sót lại”. Giải thích như vậy dễ làm người đọc hiểu nhầm. Tuy nhiên, điều đáng nói là, chỉ truyện về Tiểu Thanh trong Ngu Sơ tân chí, trong Tình sử và trong Dương châu mĩ nữ mới nói tới Phần dư hoặc Phần dư cảo còn trong Tây Hồ giai thoại, Lục song nữ sử không có chi tiết này.

Sẽ giải thích như thế nào về hiện tượng trên khi cho rằng, Nguyễn Du dựa trên Tây Hồ giai thoại, Lục song nữ sử để viết Độc Tiểu Thanh kí? Vậy, có cái gọi là Tiểu Thanh kí không?


Nguồn: onthi
Về Đầu Trang Go down
 
Phân tích Độc Tiểu Thanh Ký của Nguyễn Du
Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang
 Similar topics
-
» Phân tích bài "Chuyện chức phán sự đền Tản Viên" của Nguyễn Dữ
» Phân tích bài "Rama buộc tội"
» Phân Tích bài Chí Khí Anh Hùng của Nguyễn Du
» Phân tích Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi
» Phân tích bài Bạch Đằng Giang Phú của Trương Hán Siêu

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
Forum trường THPT Thái Phiên :: Góc học tập - Học trực tuyến :: -‘๑’-Thư viện văn mẫu-‘๑’- :: Văn mẫu lớp 10-
Chuyển đến 
Liên kết bạn bè: game iwin | game ky tien | game khu vuon dia dang | Xem phim